ditmecodosaovang

Freedom, Democracy, No Communism for Vietnam

suc_vat_thich_quang_do_tay_sai_an_cut_suc_vat_ho_chi_minh

suc_vat_thich_quang_do_tay_sai_an_cut_suc_vat_ho_chi_minh

Những Bài Học Đã Bị Chìm Vào Trong Quên Lãng (Bài 2) Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

Để tiếp theo một bài trước mà tôi đã viết, nếu người xưa đã nói: “Không bài học nào giống bài học nào”; thì hôm nay, có lẽ người Việt chúng ta đều đã thấy: Không có bài học xương máu nào, bằng những bài học kể từ sau ngày 20-7-1954, cho đến ngày 30-4-1975. Đó là, bài học “nuôi ong tay áo” hay rước giặc vào nhà.

Tôi cũng xin thưa: Sở dĩ tôi viết thêm bài viết thứ hai, là bởi tôi đã đọc được bài viết tiếp theo: Nghị quyết 36 thắng lớn của nhà văn Duyên Lãng Hà Tiến Nhất. Tôi xin phép để được trích đoạn như sau:

“Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị bọn phản tướng giết chết, đất nước không còn lãnh đạo. Các lãnh tụ đảng phái, những người chống đối Tổng Thống Ngô Đình Diệm có cơ hội cầm cờ trong tay nhưng đã đều không biết phất. Sự thể chứng minh họ rất dở về chính trị nhưng lại muốn làm lớn. Kết quả là họ mất niềm tin của quần chúng. Khi đã hết tin vào các lãnh tụ chính trị, người dân đi tìm sự lãnh đạo ở tôn giáo. Tìm được rồi, họ biến lãnh đạo tôn giáo thành thần tượng, và chính xác hơn là taboo, ai dám đụng đến sẽ bị chụp ngay cái nón cối lên đầu …”

“ Hòa thượng Thích quảng Độ chống bọn lãnh đạo Hà Nội, thì rõ ràng rồi, nhưng nói rằng ngài chống cộng sản thì cần phải xét lại. Bởi vì, nếu HT Thích Quảng Độ chống cộng thiệt thì ngài đã không yêu cầu VGCS triệu tập và chủ sự một hội nghị gồm cả những người tỵ nạn lẫn VGCS. Đây là một hình thức Hòa hợp hòa giải với việt-gian cộng-sản”.

Nhắc lại những bài học đau thương của những ngày xưa cũ, vào đầu thập niên 1960, thì trước hết, chúng ta phải nhớ về sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Đức, đã bị quyết định phải bức tử, trong một cuộc họp tại chùa Già Lam, gồm có: Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Đức Nhuận, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Trí Thủ, Thích Thiện Hoa, Thích Hộ Giác,Thích Thiện Minh,Thích Thanh Từ và mấy tên sư nữa; tất cả đã chọn và ra lệnh cho những tên “đệ tử” như Trần Quang Thuận đã đích thân lái xe chở HT Thích Quảng Đức đi đốt, còn tên Nguyễn Công Hoan, từng là Dân biểu lưỡng triều, chính Nguyễn Công Hoan đã chích thuốc mê cực mạnh vào người của HT Thích Quảng Đức, và cũng chính Nguyễn Công Hoan đã giả làm một “nhà sư”, hắn đã cầm nguyên một can xăng để tưới thẳng xuống từ vai của HT Thích Quảng Đức và đã bật lửa từ chiếc zippo loại lớn, để đốt một con người đã hòan toàn hôn mê bất động, vào ngày 11- 6- 1963, (nhằm ngày 20-4 âm lịch). Thích Trí Quang và cả GHPGVNTN, đã dùng sinh mạng của HT Thích Quảng Đức làm phương tiện, để giật sập Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, cùng cái chết vô cùng đau thương của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nhị vị Bào đệ là Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn. Nên nhớ là Ông Ngô Đình Cẩn đã nuôi hai Con Ong Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu ở ngay trong tay áo, và cũng chính ông Ngô Đình Cẩn đã rước hai tên Giặc Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu vào trong nhà.

Và để tìm hiểu thêm về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức, tôi xin giới thiệu đến quý độc giả bằng một tiếng nói khác của một nhân chứng sống, đó là: Cựu Đại đức Thích Huệ Nhật, tức Mục sư Tin Lành Nguyễn Huệ Nhật, đang có mặt tại Đức Quốc. Ông đã viết cuốn sách: “Từ Áo Cà Sa Đến Thập Tự Giá”, và đã được Ông Hồ anh Nguyễn Thanh Hoàng cho đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong từ số 623, ngày 01 đến 15 tháng 01 năm 2002. Tôi xin phép được trích đoạn như sau, kính mời quý độc giả cùng theo dõi:

“Cái chết tự nguyện là gì? Những người tự thiêu cho đạo pháp:

“Tôi xin giới hạn trong phạm vi hiểu biết của cá nhân mình, và những gì tôi viết sau đây cũng là một số kinh nghiệm và nhận xét của riêng tôi, sau ba lần tưởng đã chêt nhưng nay tôi còn sống trong Ơn Cứu Rỗi của Thiên Chúa, nên xác tín hơn, rộng mở hơn.

Người tự thiêu đầu tiên đầu tiên trong thời kỳ Phật giáo đấu tranh chống lại kỳ thị tôn giáo dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm là Hòa thượng Thích Quảng Đức. Ngài là một vị tu sĩ bán thế xuất gia, nghĩa là có vợ con trước khi đi tu. Con ruột ngài cũng là đệ tử nổi tiếng của ngài sau khi ngài hy sinh. Ngài chỉ nổi tiếng sau khi hy sinh.

Cũng như tất cả các vị thánh tăng đã nối tiếp tự thiêu cho Đạo Pháp, bản thân Hòa Thượng Thích Quảng Đức không hề biết rằng kết quả tốt do sự hy sinh của ngài chỉ là nhất thời từ 1-11-1963, còn hậu quả xấu do sự hy sinh của ngài là lâu dài từ mùa hè 1966 đến nay. Vì sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Phật giáo Việt Nam chỉ thắng thế nhất thời, để rồi càng bị CSVN lợi dụng sâu sắc hơn, và đưa những cuộc đấu tranh kế tiếp đến ngày 30-4-1975, cho cộng sản Việt Nam lên cướp chính quyền.

Nhìn lại quá trình, chỉ hai năm đầu sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Hội Phật Học VN đã trở thành GHPGVNTN nổi như cồn, nhưng đó là thời gian manh nha đưa GHPGVNTN đến tình trạng suy đồi và phân rẽ ngay trên đỉnh cao thế lực của họ. Năm 1966, GHPGVNTN chia rẽ thảm khốc giữa hai phe Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang. Chưa bao giờ lịch sử Phật giáo Việt Nam có sự căm thù nhau, phân rẽ nhau tệ hại như thế. Vụ đem bàn thờ Phật ra đường để đấu tranh trong mùa hè 1966, là một bằng chứng suy tàn nhất của tinh thần và tổ chức Phật giáo Việt Nam. Nếu tôi kể ra những bất đồng của các vị lãnh đạo PG trong vụ Đem Phật Ra Đường, thì rất phiền. Những cuộc tranh giành đẫm máu trong khuôn viên Việt Nam Quốc Tự cho đến nay vẫn còn giữ kín, trừ vụ kéo sập dãy nhà do Đại đức Thích Đức Nghiệp xây lên sát lề đường Trần Quốc Toản là không thể dấu diếm được. Tôi ngẫm nghĩ Thượng tọa Thích Trí Quang chỉ là một mẹ mìn rất đắc lực của cộng sản Bắc Việt. Ông bắt cóc niềm tin của đa số Phật tử, để biến họ thành phương tiện hữu hiệu nhất cho cộng sản Bắc Việt vào xâm chiếm miền Nam, và ông đã cho cộng sản Bắc Việt vắt chanh bỏ vỏ tất cả nhân, tài, vật lực do niềm tin ấy mà có. Khi công việc bắt cóc ấy hoàn thành, mẹ mìn Thích Trí Quang ngồi im lặng rung đùi và được cộng sản Việt Nam bảo vệ kỹ, không ai dám động một sợi lông chân của ông.

Tôi tin chắc rằng Hòa thượng Thích Quảng Đức đã không hình dung nổi hậu quả tang thương về sau nầy, đối với Phật giáo nói riêng, và dân tộc nói chung, qua sự hy sinh của ngài. Chính người con trai ruột của ngài, người đã trở thành một vị Thượng tọa nỗi tiếng tại ngôi chùa của ngài để lại trên đường Trương Minh Giảng, đã sống ba chìm bảy nổi mang nhiều tăm tiếng và cũng bị tù đày trong chế độ cộng sản.

Lần tự thiêu thứ nhất tại Sài Gòn là lần tôi hoàn toàn chờ đợi theo sự sắp xếp và tổ chức của Ủy Ban Liên Phái, nhưng không thực hiện được, vì tình hình sao đó.

Một người khác là thầy Lưu Bổn đệ tử của Hòa Thượng T.M.H chùa TL, Huế, cũng đã nhảy xuống giếng sâu tự tử tại chùa Phật giáo Đà Nẵng, vào mùa hè 1972, sau khi bị nghi ngờ một chuyện xấu. Mười lăm phút trước khi nhảy xuống giếng, thầy Lưu Bổn ngồi ăn trưa với tôi một cách lặng lẽ.

Một người bạn khác của tôi tên T. An, cũng đi tu ở chùa Phổ Đà tại Đà Nẵng, ông mở một trường Bồ Đề ở gần ga xe lửa Đà Nẵng, cũng đã tự thiêu vì một chuyện riêng, nhưng sau đó được dư luận báo chí cho là tự thiêu vì ý nghĩa lớn lao khác. Trong thế giới tôn giáo đã lâm lụy vào những cơ mưu chính trị thời Việt Nam Cộng Hòa, một vài trường hợp các tu sĩ tự tử bằng cách tự thiêu đã được gán cho những ý nghĩa cao cả “Ý nghĩa cao cả” ấy được áp đặt cho mục đích khác, mà người tự thiêu không đặt ra, nhưng sau cùng những người bà con của họ cũng được hưởng tiếng thơm “ Thánh Tử Đạo”. Cũng có nhiều vụ tự thiêu do ý định tự tử để giải quyết chuyện riêng, nhưng khi thực hiện, họ lại nêu lý do thiêng liêng để che đậy chuyện bậy bạ. Hoặc là người tự tử bằng cách tự thiêu xong rồi, sau đó mới được gán cho một ý nghĩa thiêng liêng. Thời đó, nhiều vụ tự thiêu đã bị lạm dụng. Người tình nguyện tự thiêu thì đông, nhưng người đáng được chấp nhận thì ít. Vì một người có đời sống không sáng sủa, nếu được chấp nhận cho tự thiêu, sẽ có nguy cơ làm mất niềm tin của nhiều người khác. Tất cả những người tình nguyện tự thiêu đều là những người không sáng giá khi còn sống. Những người sáng giá nghĩ rằng mình cần sống để làm việc có kết quả hơn.

Những người nêu trên đều quen thân với tôi, nên tôi biết một số lý do tại sao họ đã tự thiêu. Giống như những người thất tình, những thí sinh thi rớt, những đứa con giận cha mẹ, những người bị thất bại làm ăn … Họ không còn thiết sống nữa. Họ tìm đến cái chết để trốn chạy một thực tại bất đắc chí bằng cái chết tự sát”.

Trên đây, là những tiếng nói của Cựu Đại Đức Thích Huệ Nhật, đã nói về những cái chết, mà Phật giáo Ấn Quang đã phong cho cái chức “Bồ Tát” hoặc “tự thiêu để cúng dường Tam Bảo”.

Là người Phật tử, chắc ai cũng biết, chẳng có “Tam Bảo” nào lại đi nhận những cái xác chết ấy. Nhưng Phật giáo Án Quang luôn luôn “Lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện”, nên họ không từ bất kể một thủ đoạn nào, dù có tàn ác đến đâu, mà chỉ cần đạt được đến mục đích của Ấn Quang mà thôi. Và chính vì thế, mà HT Thích Quảng Đức đã bị bức tử.

Phật giáo Ấn Quang: Tàn ác – Bất nhân:

Qua những lời của cựu Đại đức Thích Huệ Nhật, thì chắc chẳng phải riêng ai, mà tất cả những người có nhân tính đều đã thấy những trò giết người để “cúng dường Tam Bảo” của GHPGVNTN ( Ấn Quang ), quả thật, là vô cùng tàn ác.

Riêng trường hợp của Hòa thượng Thích Quảng Đức, với những tài liệu mà tôi có được, thì ông đã bị bọn thầy chùa là ác quỷ lừa gạt, để rồi phải cam chịu cho bọn chúng đem ra bức tử. Nên biết, HT Thích Quảng Đức cũng có vợ và con trai ruột như bao nhiêu người khác. Như thế, mà lũ thầy chùa bất lương của Ấn Quang đã nhẫn tâm mà đem ông ra để đốt, tôi không biết lúc đó, vợ và người con trai ruột của HT Thích Quảng Đức đang ở nơi đâu, họ có thấy được hình ảnh này không? Tôi nghĩ có thể lúc đốt người thì bọn chúng đã đưa vợ và con của ông đi đến một nơi khác, để họ khỏi thấy hình ảnh người cha ruột của mình và người chồng thương yêu của họ bị đốt cháy trong ngọn “Lửa Từ Bi”!!!

Chúng ta cũng cần phải biết hành động giết người này, nếu xẩy ra tại một nước Âu- Mỹ thì chắc chắn bọn này phải chịu án tù. Nhưng tiếc rằng, vào thời đó, tại Việt Nam, đặc biệt là Tổng thống Ngô Đình Diệm, vì lòng nhân từ, và vì phải đối đầu với nhiều lũ giặc, nên đã đành phải nhắm mắt làm ngơ, mà không hề động đến một sợi tóc của Phật giáo Ấn Quang. Để rồi cuối cùng chính vị Tổng Thống cùng toàn gia đã phải chịu chết dưới những bàn tay của những tên Giặc, mà do chính Vị Tổng Thống đã hết lòng thương yêu, có tên từng là “con nuôi” của Người, và cũng chính Người đã rước bọn chúng vào tận trong nhà như những tên: Dương Văn Minh, Đỗ Mậu, Nguyễn Khánh v…v…

Tôi đã nhìn hình ảnh của Vị Tổng Thống Ngô Đình Diệm nằm cong queo, hai tay bị trói chặt về phía sau, thân thể nhuộm đầy máu, gương mặt đã bị biến dạng; như thế, mà đã có một tên gian ác nào nó, mặc dù đã được che kín phần trên của cái mặt sát nhân, song tôi đã thấy cái mồm của hắn đang nhe răng cười một cách rất thỏa mãn, khi nhìn tận mắt tấm thi hài đẫm máu của vị Tổng Thống, và tôi cũng thấy hắn giống cái bản mặt của tên phản tặc Dương Văn Minh.

Ngoài tấm hình của vị Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hôm nay, tôi lại xin đưa tấm hình của Ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn vào giây phút cuối đời, Ông đang bệnh rất nặng, nằm liệt giường tại khám Chí Hòa. Khi được một vị Linh Mục vào báo tin sẽ bị xử bắn, mặc dù người ta đã phải dìu Ông ra nơi có chôn sẵn một chiếc cột để trói ông vào trước khi xử bắn, và đến khi người ta bịt mắt, Ông đã yêu cầu không bịt mắt, mà hãy để cho Ông được nhìn thấy mọi người. Ôi! đây mới chính là tinh thần “Vô Úy”. Chẳng những vậy, mà trọn cả cuộc đời của Ông Ngô Đình Cẩn, Ông đã nêu cao một tấm gương vô cùng trong sáng, thật đúng nghĩa như cổ nhân đã dạy:

“Phú quý bất năng dâm- Bần tiện bất năng di – Uy vũ bất năng khuất”.

Xin mọi người hãy nhìn xem, tấm hình của Ông Ngô Đình Cẩn vào phút cuối của cuộc đời tại khám Chí Hòa, để còn biết đến một trong những hành vi tàn ác của bọn người đâm thuê, giết mướn.

Đây là hình ảnh Vị Linh Mục đã đến thăm Ông Ngô Đình Cẩn vào ngày 8-5-1964. Đến hôm sau, Thích Trí Quang và Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tức Ấn Quang, đã dùng những lời giao ước bịp, để áp lực buộc Nguyễn Khánh, một tên ngu đần, phải ra lệnh xử bắn Ông Ngô Đình Cẩn vào lúc 17 giờ ngày 9-5-1964, tại khám Chí Hòa. Đây là bài học rước giặc vào nhà, của Ông Ngô Đình Cẩn.

Hòa Thượng Thích Quảng Độ: Đương kim Đệ ngũ Tăng thống của Giáo hội phật giáo Thống nhất, tức Ấn Quang, phải chịu trách nhiệm về tất cả những cuộc thảm sát đồng bào vô tội, kể từ sau ngày 20-7-1954 cho đến ngày 30-4-1975, do chính GHPGVNTN đã gây ra.

Căn cứ theo những lời của chính HT Thích Quảng Độ đã viết trong cuốn sách:

“Nhận Định Những Sai Lầm Tai Hại Của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đối Với Dân Tộc Và Phật Giáo Việt Nam”; mà Võ Văn Ái đã đăng trên Giai Phẩm Xuân Quê Mẹ số 131& 132, tháng 1&2, năm 1995, nơi trang số 76, HT Thích Quảng Độ đã viết:

“Chính quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia đình trị và có tính kỳ thị tôn giáo, nên ít được lòng dân. Sau khi đã tiêu diệt các giáo phái khác, như Cao Đài, Hòa Hảo, năm 1963, ông Ngô Dình Diệm ra tay đàn áp Phật giáo, toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam đã phải đứng lên chống lại để bảo vệ đạo pháp. Đến tháng 11 năm 1963, chế độ ông Ngô Đình Diệm bị lật đổ”.

Còn HT Thích Đức Nhuận, nguyên Tổng thư ký Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tức Ấn Quang (trước 30-4-1975). Nên biết, qua Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam vào năm 1981, Thích Đức Nhuận đã được suy cử lên ngôi Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thích Đức Nhuận cũng đã có bài viết: “Bằng đôi chân của mình mời người hãy đi lên”, đã được đăng trên báo Quê Mẹ số 113, tháng 6 năm 1995, như sau:

“Năm 1963, Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do và bình đẳng tôn giáo và được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ. Bạo quyền mang đặc tính kỳ thị tôn giáo sụp đổ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập”.

Những lời đã trích ở trên, là của chính hai Hòa thượng đứng đầu của GHPGVNTN, đã công khai nhận trách nhiệm về cuộc đánh đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa.

Kế đến, là ông Võ Văn Ái, người đã được HT Thích Quảng Độ “công cử” làm “Phát ngôn nhân của Viện Hóa Đạo, và là Giám đốc Văn phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế” có văn thư và ấn ký rõ ràng, và Võ Văn Ái cũng đã viết hàng loạt bài trên báo Quê Mẹ để bôi nhọ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, với những lời giới thiệu như sau:

“Ông Hoành Linh Đỗ Mậu, xem loạt bài viết về ông Diệm trên báo Quê Mẹ, đã có nhã ý gởi tặng người viết tập hồi ký: Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Ông có ghi những lời trân trọng, biểu lộ sự đồng tình của một người đã biết ông Diệm từ thuở còn chưa có bao nhiêu người biết đến”.

Chính những lời của cả ba người đã viết, đúng hơn là họ đã nhận trách nhiệm về những màn “ tranh đấu” có máu đổ, đầu rơi, cộng thêm với sự kiện của cuộc họp tại chùa Già Lam năm xưa, với sự hiện diện của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Đức Nhuận, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Hộ Giác, Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Minh, Thích Thanh Từ và nhiều tên sư nữa, chính trong cuộc họp này, các sư đã quyết định phải bức tử Hòa thượng Thích Quảng Đức; sau đó là việc đánh đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa, rồi đến Cuộc thảm sát tại Thanh Bồ-Đức Lợi vào ngày 24-8-1964, kế tiếp là Cuộc bạo loạn bàn thờ Phật xuống đường tại miền Trung, mùa hè 1966, biến nhà chùa trở thành nhà tù, để giam giữ đánh đập các vị là Quân- Cán-Chính của Việt Nam Cộng Hòa, và cuối cùng là vào những ngày trước 30-4-1975, các sư sãi của GHPGVNTN, (Ấn Quang) đã đưa từng đoàn xe ra tận núi rừng để rước cộng quân vào các thành phố của miền Nam tự do, đồng thời cũng đã bắn giết rất nhiều người vô tội để trả thù, vì các vị này đã phản đối những cuộc bạo loạn của Phật giáo Ấn Quang trước đó.

Với những bằng chứng đã quá rõ ràng, thì không có cách nào để biện minh được cho những hành vi giết người từ những năm đầu của thập niên 1960, cho đến ngày 30-4-1975, của GHPGVNTN tức Ấn Quang. Bởi chính những lời của HT Thích Đức Nhuận và của HT Thích Quảng Độ, cả hai người đã và đang đứng đầu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã công khai nhận trách nhiệm trong việc đánh đổ nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Đồng thời đã cùng nhau quyết định phải bức tử Hòa thượng Thích Quảng Đức, để làm chiếc đòn bẩy mà bật tung cả Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa; mặt khác Phật giáo Ấn Quang cũng đã dùng những lời giao ước bịp, để áp lực buộc Nguyễn Khánh phải xử bắn Ông Ngô Đình Cẩn.

Chính vì thế, mà Hòa thượng Thích Quảng Độ đương kim Đệ ngũ Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tức Ấn Quang, người đang kế thừa tất cả những gì của các đời Tăng thống đã để lại; thì đương nhiên phải chịu trách nhiệm về tất cả những cuộc thảm sát đồng bào vô tội tại Việt Nam, mà đã do chính GHPGVNTN đã gây ra, kể từ sau ngày 20-7-1954 cho đến ngày 30-4-1975.

Tôi xin nhắc lại để mọi người cùng biết:

Vào ngày 27-6-2009. Một tòa án quân sự tại Roma đã tuyên xử tù chung thân cho các cựu quân nhân của SS, những người này từ 84 đến 90 tuổi. SS là tên gọi tắt của Schutzstaffel (đơn vị vệ binh đỏ Đức quốc xã), và theo phán quyết của tòa án, thì quốc gia Đức phải chịu trách nhiệm dân sự và được yêu cầu phải bồi thường 1.25 triệu Euros (khoảng hai triệu hai trăm ngàn Mỹ kim) cho gia đình của các nạn nhân.

Sau phiên xử Claudio, Thống đốc Tuscany đã tuyên bố:

“Sáu mươi năm đã trôi qua, nhưng chúng tôi không thể quên được những gì đã xảy ra”.

Còn những nạn nhân đã chết thảm khốc dưới những bàn tay của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Ấn Quang) tại Việt Nam, trong suốt thời gian kể từ sau ngày 20-7-1954 cho đến ngày 30-4-1975, thì biết đến bao giờ mới được trả lại công đạo???!!!

Nhưng HT Thích Quảng Độ đã không chịu dừng lại ở đó, mà vừa qua vào ngày 7-11-2009, thừa lệnh của Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đệ Ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Ấn Quang, nên Võ Văn Ái đã cùng với “Hội chuyên gia” của đảng Việt Tân là tay sai của bọn việt-gian cộng-sản tại Đức, đã cùng nhau tổ chức ra mắt tập thơ “tù” với 400 bài thơ mà chỉ làm ở trong đầu, rồi đánh mục lục từ số 1, số 2, số 3 cho đến số 400 cũng ở trong đầu của Thích Quảng Độ.

Tôi đã nhìn thấy trên trang điện báo: vietnamexodus.org, của ông Đinh Thạch Bích, những tấm hình và tin tức về buổi ra mắt tập thơ “tù” của Thích Quảng Độ, trong đó gồm có: Võ Văn Ái, Tiến sĩ Nguyễn Văn Phẩy, Tiến sĩ Hoàng Tôn Long.

Tôi vẫn nhớ cách đây tám năm, tôi đã sang Đức quốc hai lần, tôi đã gặp ông Hoàng Tôn Long và cả ông Nguyễn Văn Phẩy; ông Nguyễn Văn Phẩy, lúc đó, đang đứng đầu “Hội chuyên gia” của Mặt trận Hoàng Cơ Minh, tức băng đảng Việt Tân, tại Đức. Và tôi cũng đã gặp cả hai người trong một cuộc tranh luận rất gay gắt, mà có lẽ chính hai người này khó có thể quên được một phụ nữ yếu đuối như tôi, tôi vẫn nhớ ông Hoàng Tôn Long thì tỏ ra hòa nhã, riêng ông Nguyễn Văn phẩy, tại một phòng hội có đông người ông đã nổi nóng, vì nói tôi là đã “nặng lời” với lãnh tụ Hoàng cơ Minh của họ. Sau đó, tôi đã có bài tường thuật lại trên Văn Nghệ Tiền Phong.

Sở dĩ tôi phải nhắc lại như thế, vì tôi biết chắc ông Nguyễn Văn Phẩy lúc đó là người đứng đầu của “Hội Chuyên Gia”, và hiện nay là “Ủy viên Trung ương” của đảng Việt Tân, để cho mọi người đều biết rằng HT Thích Quảng Độ: Đệ ngũ Tăng thống GHPGVNTN (Ấn Quang) và Võ Văn Ái, người được HT Thích Quảng Độ “công cử” làm: Phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo, kiêm Giám đốc Phòng thông tin Phật giáo Quốc tế, cả hai người hiện đang đứng trong hàng ngũ của Mặt trận Hoàng Cơ Minh, tức băng đảng Việt Tân.

Nên biết, trên “Nội San Việt tân” số 38, tháng 7 & 8 năm 1999, nơi trang số 09, đã viết nguyên văn như sau:

“Việt Tân xác nhận tính toàn dân của cuộc cách mạng tháng 8 – 1945, và tính tự chủ của chính quyền được hình thành vào tháng 9 -1945. Hai đặc tính Cách Mạng và Dân Chủ của Đảng Việt Tân”.

Về băng đảng Việt Tân tức Mặt trận Hoàng Cơ Minh, thì trước đây, tôi có viết loạt bài: Vạch Mặt Bọn Cộng sản Gian Manh Đang Núp Bóng Người Quốc Gia Tỵ Nạn, tôi đã đưa ra những bằng chứng lừa bịp với những “trận giao tranh của Đoàn võ trang Kháng Chiến Quảng Nam- Đà Nẵng “cho đến “Kháng Chiến Sài Gòn – Cửu Long”, đã được đăng trên nhiều số báo “Kháng Chiến” và “Đài Phát thanh Kháng Chiến” cũng như những màn giết người để bịt miệng tại rừng Thái Lan và những cái chết của các vị như: Ông bà Lê Triết, Trung Tá Đỗ Trọng Nhân của Bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong, nhà báo Đạm Phong, Hoài Điệp Tử, Kỹ sư Ngô Chí Dũng, cựu Đại tá Dương Văn Tư, Bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều v…v… Hiện tất cả loạt bài này, vẫn còn lưu giữ trên trang điện báo: http://hon-viet.co.uk/. Xin quý vị hãy đọc lại để thấy được những hành vi tàn ác và lừa gạt niềm tin của đồng bào, để chớ bao giờ tin những việc làm, cũng như tất cả những lời nói băng đảng Việt Tân.

Nhà văn Duyên Lãng Hà Tiến Nhất, cũng đã viết: “… Khi hết tin vào các lãnh tụ chính trị, người dân đi tìm sự lãnh đạo tôn giáo. Tìm được rồi, họ biến lãnh đạo tôn giáo thành thần tượng, và chính xác hơn là taboo, ai dám đụng đến sẽ bị chụp ngay cái nón cối lên đầu “.

Quả đúng như thế, vì trước đây, khi “HT” Thích Quảng Độ, mà có người đã phong là “thánh tăng”, đã phát ra “Lời kêu goị: Biểu tình tại gia – Bất tuân dân sự” vào ngày 29-3-2009; mà “HT” đã rất tinh vi khi đem trộn lẫn viên độc dược Hòa-hợp Hòa-giải với bọn việt-gian cộng-sản qua “Lời kêu gọi số 3” vào trong bản văn này, tôi xin trích lại nguyên văn:

“Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cáp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên”.

Sau khi đọc được “Lời kêu gọi” này, tôi đã viết bài: Hòa thượng Thích Quảng Độ phát ra Lời kêu gọi “Bất Tuân Dân Sự” với dụng ý gì?! Qua bài viết này, tôi đã kết luận: Đó chính là lời kêu gọi Hòa-Hợp Hòa-Giải với đảng cộng sản Việt Nam.

Song tôi không thể ngờ được, là với những lời nói chân thật của mình lúc đó lại “ phạm phải” đến một điều taboo. Nghĩa là tôi đã dám đụng tới một điều cấm kỵ đối với “ ông thánh” Thích Quảng Độ. Để rồi sau đó, tôi đã bị cả một số người rất đông đảo, họ đã xúm nhau lên các diễn đàn, mà nói theo Nhà văn Duyên Lãng Hà Tiến Nhất là: “ai dám đụng đến sẽ bị chụp ngay cái nón cối trên đầu”. Chính vì thế, mà chẳng những bị chụp rất nhiều cái nón cối, mà tôi còn bị rủa sả cho tôi chết càng sớm càng tốt. Tôi cũng bị họ chụp cho cái mũ là cộng sản hồi ở Quân khu 5.

Đến cái điều này, thì tôi đã phải hỏi một ông anh kết nghĩa hồi còn trong nhà tù “cải tạo” là Quân khu 5 ở chỗ nào? Vì anh ấy là người đồng hương, anh đã xem tôi như em gái nên đã trả lời:

“Nếu ông già mầy còn sống, thì hỏi ổng chưa chắc đã biết, còn tao thì không hề biết Quân khu 5 nó ở đâu, còn mầy thì làm sao mà biết được, vì hồi đó ông già mầy chưa có cưới Mẹ của mầy. Vả lại, bọn chúng gọi mầy là cái thằng, chứ chúng đâu có biết mầy là đàn bà con gái, mà ai bảo mầy láu táu lên tiếng trước làm chi, cho chúng nó chửi, thôi lỡ rồi ráng chịu đi ”.

Nghe ông anh kết nghĩa của mình đã nói như vậy, nên tôi cứ để yên cho người ta rủa sả. Nhưng chẳng phải mọi người đều lầm tưởng tôi là một “cái thằng”, bởi vốn có một số người đã biết đến tôi là một phụ nữ, trong đó, có Võ Văn Ái. Vì vậy, Võ Văn Ái đã “lấy thịt đè người” bằng cách đưa lên các trang điện báo bằng cái “Thông Cáo Báo Chí, của Văn phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, và Cơ quan Phát ngôn của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN”, để đánh tôi, rồi cả một số đệ tử đã dùng đến nhiều cách, rồi cũng đã buộc tôi: “phải viết một bài để chính thức xin lỗi HT Thích Quảng Độ và xin sám hối”. Nhưng tôi tự thấy, mình không hề nói hay làm một điều gì sai trái, nên cương quyết không xin lỗi, không sám hối.

Sau đó, khi đã bị khủng bố tinh thần lên đến cao độ, thì tôi bỗng không biết sợ một điều gì nữa hết, vì thế, tôi lại viết tiếp thêm mấy bài khác.

Bây giờ, đọc bài viết của Nhà Văn Duyên Lãng Hà Tiến Nhất, thì tôi mới biết hễ nói đến “thánh tăng” là đụng chạm đến một điều taboo. Cũng may cho tôi, là tôi không phải đoán mò, vì bọn việt-gian cộng-sản chúng đã làm theo cả hai bản văn kêu gọi của HT Thích Quảng Độ: Từ “Lời kêu gọi Bất Tuân Dân Sự, cho đến “Không dùng hàng Trung quốc”.

Trở lại với bài viết “Nghị Quyết 36, thắng lớn”:

Không thắng lớn thật sao? Tôi xin thưa là có, chúng ta những con người còn chút tỉnh táo thì hãy công nhận những điều đáng buồn, và đáng trách ấy:

Trước đây, tôi đã có viết một bài: Cộng Sản, Hòa Hợp, Hòa Giải, Liên Minh, Liên Kết: Một Lũ Tội Đồ Của Dân Tộc. Bài này đã được đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong, số 596, từ ngày 16 đến 30 tháng 11 năm 2000, nơi trang số 26, hôm nay tôi xin chép lại một vài đoạn như sau:

Đến bài học Hòa hợp, Hòa giải, vào trước ngày 30-4-1975, khi cộng quân tiến chiếm tỉnh nào, thì ở đó cái gọi là Lực lượng Hòa hợp, Hòa giải Phật giáo đã thẳng tay mang súng đi lùng bắt nhiều người đem giam trong các chùa, rồi sau đó trói họ lại, dao kề cổ, súng kề lưng, áp giải họ đến các nhà tù, để giao cho Việt cộng bỏ tù hoặc xử bắn.

Bây giờ chúng lại đẻ thêm ra những tên cộng sản “phản tỉnh chống đảng” như Dương Thu Hương, Nguyễn Hộ, Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Nguyễn Thanh Giang, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Văn Trấn v…v… Rồi không biết sẽ còn bao nhiêu tên nữa!

Vậy, ta hãy nghe những lời của chính lũ ấy đã viết:

“ Ý chí đấu tranh cho tự do, dân chủ, công bằng của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc mãi mãi được nhân loại biểu dương và tôn vinh trong lòng tôi” (Nguyễn Thanh Giang).

“ Mỗi người đảng viên Cộng sản là một tinh hoa của dân tộc” (Bùi Tín).

“Tôi yêu chủ nghĩa Cộng sản cũng như bố tôi đã yêu, như mẹ tôi đã yêu” (Vũ Thư Hiên).

“Tôi và vợ Nguyễn Thị Xuân Quý đã gửi con gái đầu lòng mới sáu tháng tuổi cho bà con nuôi, rồi vượt Trường Sơn vào Nam đánh giặc và bây giờ tôi vẫn còn thiết tha với Đảng” (Bùi Minh Quốc). Vậy, hắn đã gọi những người Quốc Gia là “giặc”.

“ Hỡi những người đảng viên lương thiện của đảng cộng sản Việt Nam …” (Nguyễn Văn Trấn )

Thật đúng là cộng sản, bởi đã là đảng viên cộng sản thì làm gì có lương thiện, mà lương thiện thì không bao giờ là cộng sản.

Những dòng trên đây, là tôi đã viết vào tháng 11 năm 2000, nhưng cho đến hôm nay, thì chúng ta thấy, là đã có rất nhiều tên việt-gian cộng-sản và tay sai, chúng đã thâm nhập vào trong nhiều tổ chức của người Quốc-Gia Tỵ-Nạn. Chúng đã và đang tìm mọi cách để khống chế cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Đặc biệt, là đã có một số cơ quan truyền thông, báo chí mà đã một thời chống cộng, nhưng bây giờ, thì họ đã vì bả Lợi-Danh, hoặc đã bị sa vào những độc kế, nên đã cam tâm đi rước lũ giặc vào nhà.

Chúng ta đừng quên rằng: Ngày xưa, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã rước những tên khố xanh, khố đỏ vào “căn nhà” của mình, có tên từng là “con nuôi” của Người. Cũng như Ông Ngô Đình Cẩn vì đã tin Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu, nên Ông đã từng xem những tên này là thượng khách, để rồi bọn chúng đã áp lực Nguyễn Khánh, một tên ngu đần phải hạ lệnh để xử bắn chết Ông tại khám Chí Hòa, để đổi lấy những lời giao ước bịp, trong lúc Ông Ngô Đình Cẩn bị bệnh rất nặng, đến nỗi người ta phải dìu Ông ra pháp trường để thọ án tử.

Nhà văn Duyên Lãng Hà Tiến Nhất cũng đã nhắc lại câu cách ngôn của người Pháp, thật đúng lúc:

“Hãy cho tôi biết anh giao du với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người như thế nào”.

Vậy, chúng ta hãy nhìn lại chung quanh ta, bất kể là ai, song họ thường lui tới, giao du với thành phần nào, để chúng ta sẽ sớm nhận diện ra được những tên nào là Giặc, xin chớ thờ ơ, để rồi phải rước họa vào thân, lúc đó, e rằng đã quá muộn. Và chúng ta phải có đủ can đảm để nhìn vào những sự thật, dù sự thật đó nó có như thế nào chăng nữa. Xin mọi người hãy đọc lại những lời giới thiệu của bài viết: Nghị Quyết 36, thắng lớn:

“Nếu người Việt tỵ nạn chúng ta không thừa nhận sự thật, chúng ta sẽ mất trắng về tay VGCS như chúng ta đã mất miền Nam. Chuyện này sẽ xẫy đến có lẽ chẳng bao lâu nữa. Thắng lợi Cờ Vàng lúc đó chẳng giúp ích gì cho chúng ta. Bởi vì thắng lợi đó chẳng qua chỉ là những quyết định hành chánh, chứ không phải là luật của nước Mỹ. Nó chỉ có tính chính trị mà không có tính cưỡng hành, và nhất là nó không có đủ sức mạnh để ngăn nhận những đợt sóng trở cờ xô tới …”.

Chúng ta cũng đừng quên rằng: Ngày xưa Vị Tổng Thống Ngô Đình Diệm, từng được đồng minh trải thảm đỏ đón rước giữa hai hàng quân danh dự, nhưng vào trước ngày 1-11-1963, nếu “đồng minh” chỉ cần hé mở một chút lòng nhân đạo thôi, thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ, là Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã không rơi vào nanh vuốt của loài lang sói, để rồi phải bị những cực hình vô cùng ác độc, trước khi phải chịu chết một cách tức tưởi, đau thương!!! Và Ông Ngô Đình Cẩn cũng đã từng chạy vào Tòa đại sứ Mỹ để xin tỵ nạn. Nhưng thật phủ phàng thay, bởi chính Tòa Đại Sứ của đồng minh, nơi có treo một lá Cờ Vàng, và một lá cờ của Hiệp Chủng Quốc, nhưng họ đã không hề bảo vệ Ông, mà đã đem Ông nộp mạng cho những tên khố xanh, khố đỏ, để rồi Ông đã chết thảm khốc dưới những bàn tay của những tên vô lại này.

Chúng ta cũng cần phải ghi nhớ, vào những ngày trước 30-4-1975, trong lúc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn đủ sức để chiến đấu với cộng quân, để bảo vệ miền Nam Tự Do. Lúc đó, lá Cờ Vàng của chúng ta vẫn còn treo trên các cơ quan công quyền. Nhưng “đồng minh” của chúng ta, đã làm gì? để cho kẻ thù của chúng ta đã xua quân vào cưỡng chiếm miền Nam, rồi sau đó, lá Cờ Vàng Chính Nghĩa của chúng ta đã như thế nào, thì mọi người đã thấy. Và xin hãy nhớ cho thật kỹ: Chỉ có người Việt Nam chúng ta mới yêu Quê Hương của mình. Chỉ có chúng ta mới đặt Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam lên trên hết. Còn ngoại nhân họ chỉ biết đặt Quyền và Lợi của họ lên trên hết mà thôi.

Và cuối cùng, xin mọi người trong chúng ta đừng bao giờ quên những bài học máu xương của những ngày xưa cũ. Để từ đó, chúng ta sẽ tìm ra những phương sách mới, hữu hiệu hơn, hầu chiến thắng kẻ thù chung. Chúng ta sẽ mang những lá Cờ Vàng Chính Nghĩa trở về Quê Hương, để cùng nhau dựng lại trên khắp nẽo đường Việt-Nam ngàn đời yêu dấu.

19-11-2009

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền.

http://www.hon-viet.co.uk/HanGiangTranLeTuyen_NhungBaiHocDaBiChimTrongQuenLang2.htm

November 20, 2009 Posted by | Những Bài Học Đã Bị Chìm Vào Trong Quên Lãng (Bài 2) Hàn Giang Trần Lệ Tuyền, suc_vat_thich_quang_do_tay_sai_an_cut_suc_vat_ho_chi_minh | , | Leave a comment